Wednesday, May 31, 2017

Bắt nắng

Bắt nắng
 
Tháng Năm.  Nắng theo Hạ về!
Vài giọt nắng lung linh tìm về hôn nhẹ lên suối tóc ai, tuởng chừng như những sợi tơ vàng óng ánh, đang trải dài trên dòng suối lặng lờ trôi.
 
Hè về bông hoa đua nở.
 
Tacoma, nơi tôi đang cư ngụ, vào tháng này những vệt nắng bắt đầu len lén bò vào khung cửa sổ, từ tờ mờ sáng,
như chân chim nhẹ bước lăn tăn trên thảm cỏ xanh non trước sân nhà.
 
 
Nắng,  ngày này qua ngày nọ.  Càng có nắng làm cho tôi thấy thèm được mặc quần ngắn mỏng, đi chân không trên cát, dọc theo bãi biển Nha Trang để hưởng lại không khí mát dìu dịu, se se lạnh của vùng trời, biển, mây nước, quê tôi, Nha Trang, noi tôi cất tiếng khóc chào đời với lời ru vỗ về của Mẹ, với tiếng sóng vỗ thì thầm bên hàng dương soi bóng.
 
Ở đây, thành phố Tacoma này, vào mùa Hè, Ông mặt trời không chịu đi ngủ sớm.
Đã gần 10 giờ khuya rồi, mắng vẫn còn luyến tiếc, vỗ nhè nhẹ, như nắng chiều quê tôi, nghe thoang thoảng mùi lúa chín tràn về thơm phưng phức, pha lẫn với mùi nước biển nghe mằn mặn đôi môi.
 
Vào mùa này, nắng chờn vờn vì chưa ru được giấc ngủ no say, dường như lúc nào cũng còn muốn nô đùa cho thỏa thích.
 
Ở đây nhà nào cũng có vườn sau với trăm hoa nở rộ cành khi Hạ về.
Nhưng tôi chưa có khi nào treo võng nằm đong đưa một mình, ở vuờn sau, để nghe bày chim đâu đó bay về, ca hót, như cây lá chuyện trò lao xao.
 
Mùa Hè ở đây, nóng khủng khiếp nên mọi người đều ăn mặc rất đơn giản; quần cụt, áo ngắn tay.  Có nhiều cô mặc áo tắm mỏng, hở hang không phủ che, để lộ bộ ngực cao đầy, nổi bần bật giữa buổi trưa nắng chói rọi làn da trắng ngần dưới ánh mặt trời gay gắt.
 
Tacoma, cũng có biển. Nhà tôi chỉ cách biển có 10 phút lái xe.
 
Hai mươi lăm năm rồi, tôi chỉ tìm thăm biển Tacoma có mỗi một lần; vì biển không thơm ngon như Biển của quê tôi. Vòng tay biển Tacoma hững hờ, không ôm chặt được bờ vai tôi trong vòng tay ân tình của Biển. Môi Biển không nồng, không mằn mặn để có thể giữ được tôi dài lâu hơn. Biển ở đây,  không có những cành tra che bóng mát. Bàn tay của Biển không trao cho tôi được mọt miếng ổi chua ngâm cam thảo, để khi tôi chấm muối ớt, rồi cắn nhè nhẹ nửa miếng, trao cho ai đó nửa miếng còn lại, đưa vào môi để nghe môi của hai đứa tê dại truớc đầu luỡi.
 
Biển ở đây, toàn là những người xa lạ ...
Chào nhau cũng ú ớ rồi bỏ đi biền biệt.
Tôi cố nhìn về phiá bên kia bờ xa xa, thiên hạ tứ xứ, bà con, dòng họ của các thiên thần thiếu vải, nằm khỏa thân, thườn thược, phơi mình trên cát trắng.
Tôi lặng thinh lén nhìn, xương tủy đi hoang. Tôi nghe những hốc thịt muốn vỡ tung như thủy triều đâng... Oà vỡ!
 
Cơn mộng mị vẫn còn thôi thúc.
Tôi vội kéo Thiên Thanh sát vào lòng ngực.
 
Nắng chiếu lung linh trên mái tóc điểm sương trắng của nàng. Tôi vội bắt những hạt nắng đang ngủ trên vai nàng. Tôi bẻ nắng ra thành hai hạt nhỏ vỡ vụn và quăng vào dòng kỷ niệm xa xưa... của tuổi đời sao qua rất vội! Hồi đó Thiên Thanh mười tám và tôi hai mươi mốt tuổi đời vừa tròn ba tuổi lính.
 
Nắng vỡ vụn thành những hạt thủy tinh nho nhỏ, chờn vờn bay theo những năm tháng thật xa xưa, mà tôi cứ ngỡ như mới đêm nay, trong một khoảnh khắc lưu đày, dáng Thiên Thanh vẫn còn đang ngờ ngợ trong tiềm thức mà ai đó còn ngoi ngóp trong ngăn tim của tuổi mộng mơ...
 
Phải rồi, sáng hôm đó, dưới ánh nắng như tim vỡ, xuyên qua cửa sổ, tóc Thiên Thanh có những vệt sáng long lanh như dòng suối chảy lóng lánh trên vai gày của nàng, có vài sợi tóc may nghiêng ngã, mơ hồ.
Tôi tiến gần đến chỗ con bé Lọ Lem, con Biển, nàng Thiên Thanh đang ngồi học, tôi chết lịm trước dáng học trò của nàng.
Thiên Thanh vẫn hồn nhiên dưới vòm trời có
 nắng hanh như mái tóc đầy sao, tựa như dát bạc.
 
Tôi đứng sau lưng Thiên Thanh, khi những vầng mây trôi, làm cho ánh nắng đang nằm trên tóc Thiên Thanh chảy dài như một dòng sông ký ức của tuổi thơ. Tóc Thiên Thanh lốm đốm sợi vàng, có vài sợi óng ả như tơ lụa đang giăng.
Bất giác tôi thỏ thẻ với nàng:
"-Đẻ anh bắt nắng đang ngủ trên tóc em nghen?"
 
Thiên Thanh ngước lên nhìn tôi. Mắt Thiên Thanh to tròn như hai viên bi của vùng trời huyền thoại, sâu hun hút đã đưa hồn tôi chết lịm trong mắt nàng.
Thiên Thanh ngỡ ngàng đáp:
"- Anh! Đừng làm em sợ!"
Từ ngày đó, đôi mắt  Thiên Thanh với mái tóc óng ả những sợi tơ vàng, bao giờ cũng hiện hữu trong ngăn tim tôi...
Duy Xuyên
Tacoma
29/05/17

TẢN MẠN Tiếng hát TỐ ANH

TẢN  MẠN
Tiếng hát TỐ ANH


Người Cổ Tích

(28/05/2017)


Mấy hôm nay,  không biết từ đâu, có đàn chim se sẻ nhỏ bay về đây, thành phố Tacoma, nơi tôi đang cư ngụ. Từng ngày trôi qua buồn hiu vì nắng đi hoang chưa về, bỏ tôi ngồi uống cà phê cô đơn một mình. 

Bỗng nhiên, sáng nay,  nắng lung linh trong vườn nhà. Tiếng chim ríu rít bên giàn hoa giấy đỏ thẳm. Những đóa hồng nở rộ khoe sắc thắm.
 Người Cổ Tích lắng nghe, Tiếng hát TỐ ANH và thoang thoảng hương hoa dịu dàng.  Tiếng hát mượt mà, óng ả như màu lá me non đang vang vọng trong nắng sớm, hòa quyện với tiếng nhạc đệm hào hùng trong nhạc phẩm Anh Không Chết Đâu Anh, vừa bi hùng, vừa ngọt lịm và ngây ngất như giọt cà phê trên vành môi người đang thưởng thức. Người Cổ Tích ngẫn ngơ theo tiếng hát thật êm ái ở những cung trầm.
Tiếng hát như dòng suối đã tìm sông rủ nhau trôi ra  biển khơi và trăm con lạch nhỏ cũng cùng hòa tan trong sóng nước mênh mông, tiếng hát xuôi dòng thênh thang. ..Rồi cả gió, và mây cũng  hòa lẫn với tiếng hát, lời nhạc, cùng ngậm ngùi, như thì thầm tiếc nuối, anh chưa chết đâu anh nhưng giấc   mơ đã đã xa lắm rồi! Mà hoài niệm tưởng chừng như vỡ tan trong tiếng nất nghẹn ngào, với nước mắt của người nữ ca sĩ TỐ ANH, đã làm tôi khóc theo.
Tôi khóc cho Người LÍNH Anh Hùng đã nằm xuống, cô đơn trên đỉnh đồi. Tôi khóc cho thân phận của những goá phụ mất chồng trong cuộc chiến. Tôi  cũng đã hòa một vài giọt nước mắt bởi tiếng hát truyền cảm như có thật, có người lính chưa chết thật, tay vẫn cầm vững súng, và xác giặc thù ngã gục. Hồi đó người Lính đã chết thật nhưng ngay bây giờ, giữa tiếng hát thật GIAO CẢM của CA SĨ TỐ ANH, người LÍnh Trận chưa chết thật. Anh vẫn hiên ngang về với gia đình.
TỐ ANH không phải là một ca sĩ chuyên nghiệp. Tôi không rõ Hoa Hậu Phu Nhân Tố Anh đã hát từ hồi nào nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghe TỐ ANH hát, với nỗi xúc động như chính mình có người thân vừa tử trận trên chiến trường xa xưa một thuở nào đó!
Thật tôi không ngờ vì TỐ ANH đã diễn tả lời hát như tiếng reo của đạn...
 
Tiếng hát TỐ ANH, nói lên nỗi day dứt, tiếc nhớ “người xưa giờ đã thật xa, đã chết rồi, nhưng chỉ trong phút chốc: "ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH”, và tiếng hát lúc thì bi tráng lúc thì mềm mại như mây nõn bỗng vút cao, nghe khắc khoải, xao xuyến.
Tiếng TỐ ANH  hát như Sương sa mông lung nỗi nhớ!
Tiếng hát quyện vào những notes nhạc lay lắt như lá vàng phai  rồi năm tháng mãi đi qua, người LÍNH đã thật xa...
Tiếng hát như vừa khóc mà sao đêm nay nước mắt tôi rơi.. có giọt buồn trong khe tim.
Rồi lòng tôi lại chùng xuống:
 
               
Và tiếng hát lại tha thiết, như lời vỗ về ấm áp, chân tình đem lại niềm lạc quan, một không gian sáng rộng mở.
 
Tiếng hát ngân nga thật truyền cảm với cách luyến láy điêu luyện đã đưa người nghe đến với  nhiều cung bậc cảm xúc.    

Đây là lời Tản mạn của người viết qua bài hát Anh không chết đâu anh.

Tôi nghe tiếng hát vọng về từ những tháng năm xa vời vợi, mà cuộc chiến hồi đó, tình khúc này ngày xưa, TỐ ANH vẫn còn là cô nữ sinh Trường Nữ Trung Học Nha Trang, bước chân chim còn dại khờ mà hồn còn trinh nguyên.

Nay thì tiếng hát hòa với tiếng nhạc dìu dặt trong cõi người muôn lối,

Tiếng hát và tiếng nhạc cùng nhau kết mối giao hòa!

Buổi sáng hôm nay thật đẹp, có tiếng hát, tiếng nhạc, có nắng trong bên song cửa, có màu lá nõn, và những nụ hoa e ấp…

Đẹp quá, vì có tiếng hát TỐ ANH , có tiếng đệm nhạc của THƯƠNGANH!
Hạnh phúc vô vàn!
Một chút tâm tình như rượu say… mà vành môi chưa cạn,  khe tim đang tìm suối rủ sóng về với biển khơi, xa tít nghìn trùng…

Dẫu cuộc đời như thoáng mộng, ta vẫn vui ý đời trong tiếng hát hùng tráng của TỐ ANH, có nụ cười trên môi của THƯƠNG ANH và có nụ hôn trìu mến của SONGANH trong căn nhà lộng gió, đêm nay, đêm mai và mãi mãi trong niềm hạnh phúc vô biên.
Cho phép Người Cổ Tích được hân hoan đón chào ngày vui của Hội Văn Nghệ Tự Do!

Tôi thiết tha hơn vì rượu chưa rót, ly nước trái cây chưa ai kịp  uống mà tình bạn, tình đồng đội, tình đồng hương đã say trong lời ca tiếng nhạc dịu vợi , làm ấm lên cõi lòng xa cách. 

Tôi có thể hiểu được tiếng hát của TÓ Anh, cùng say sưa với tiếng hát Mỹ nhân Hoàng Yến cùng tiếng hát của vị Mục Sư đáng kính đang thủ thỉ kể cho nghe tiếng lòng...
Cám ơn ĐẤT TRỜi!
Cám ơn các VTH trong Hội VNTD.
Cám ơn các nhạc sĩ trong hội VNTD
Người Cổ Tích
28/05/17

 
 
 
 
 

Điểm tựa.

Lần đầu tiên được làm mẹ, đó là niềm hạnh phúc thiêng liêng của hầu hết mọi người phụ nữ. 

Mẹ cũng vậy. Từ khi biết mình mang thai, mẹ vui mừng đến trào nước mắt. Nhưng rồi ba con, ông bà ngoại và các dì, các cậu đều không khỏi lo âu bởi vì sức khoẻ của mẹ rất yếu, do di chứng sốt bại liệt từ bé nên việc đi đứng của mẹ rất khó khăn, ai cũng sợ mẹ không đủ sức cưu mang con cho tới ngày sinh nở. Chỉ riêng mẹ, bằng tình yêu tha thiết đứa con còn là giọt máu nhỏ nhoi trong bụng mẹ, mẹ tin tưởng mình sẽ vượt qua.

Và rồi mẹ đã đi qua những tháng ngày lo âu, hồi hộp để cho ra đời một bé gái khoẻ mạnh, giống cha như hai giọt nước. Đứa bé ấy chính là con đấy, Huyền Chi con gái yêu quý của mẹ.

Nhưng niềm vui chưa được bao lâu, hai mẹ con mình phải hứng chịu sự mất mát lớn lao của gia đình và của cả dân tộc Việt Nam nữa. Ba con phải đi vào trại lao động cải tạo mà không biết ngày về !...

Những ngày tháng ấy, mẹ đã khóc đến cạn nước mắt khi chợt phát hiện ra con còn một đứa em đang tượng hình trong bụng mẹ. Với tuổi đời còn non nớt , hai mươi bốn tuổi đầu mà mẹ cảm thấy quá sợ hãi khi phải tiếp xúc lăn lộn với đời. Mẹ tưởng như tất cả những ước mơ, hoài bão, niềm tin của mẹ đều sụp đổ hết sau khi ba rời bỏ mẹ con mình. Những ngày tháng ấy, nếu không có con chưa chắc mẹ có đủ nghị lực và niềm tin để tiếp tục sống và làm việc cho đến ngày nay. 

Có những đêm con quấy khóc, mẹ ôm con vào lòng, xoa xoa mái tóc con dỗ dành rằng :

_ Con nín đi ! Mai mốt ba về ... 

Mẹ dỗ con mà như dỗ cả chính mình. Rồi đôi khi mẹ khóc vì quá vất vả , vì tủi buồn , vì thương đứa con gái bé bỏng mới hơn hai tuổi đầu đã thiếu vắng tình cha , thương cho đứa con đang nằm trong bụng mẹ không biết ngày mai sẽ ra sao?

Con lại bắt chước xoa đầu mẹ mà thỏ thẻ rằng : 

_ Mẹ nín đi ! Mai mốt ba về ... 

Giờ đây, ngồi nhớ lại câu nói ấy của con, mẹ vẫn còn rơi nước mắt. Hai mẹ con mình đã nương tựa vào nhau mà sống, đã đi qua những tháng ngày khó khăn, thiếu thốn. Mẹ vắng bóng tình yêu của ba con, nhưng bù lại mẹ có được tình yêu của con. Con càng lớn, càng ngoan. Biết mẹ mình yếu đuối, con đã phải tự lực khi còn rất bé. 

Có lần mẹ dắt con về quê thăm ngoại, khi ấy con vừa biết đi lẫm chẫm dò từng bước, từng bước một! Mùa mưa, quãng đường từ lộ cái vào nhà ngoại sình lầy trơn trượt. Các anh chị con dì, con cậu của con tuy đã học lớp một, lớp hai ... lớn tướng rồi mà mỗi khi về vẫn được ba mẹ cõng trên lưng. Còn con gái của mẹ , đứa bé chỉ mới hơn hai tuổi đầu thôi đã phải dầm chân xuống bùn. Lúc đầu, con không chịu đi, cứ đòi mẹ bế, mà cái thân bụng mang dạ chửa của mẹ đi một mình còn chưa xong làm sao mà bế được con. Thế là mẹ phải dỗ dành: 

_ Hai mẹ con mình cùng đi bắt cá !

Nhìn đôi chân trắng hồng, bé bỏng của con sũng bùn đen nhão nhẹt , bất chợt hai hàng nước mắt của mẹ cứ tuôn trào . Mẹ nhớ tới câu ca dao : 

" Còn cha gót đỏ như son 
Một mai cha vắng gót con lấm bùn " .


Ôi ! sao mà giống với hoàn cảnh của mẹ con mình quá, phải không con ? 
Thấy tội nghiệp thay cho mẹ con mình bữa no , bữa đói. Bác Trường hàng xóm mới bảo mẹ là cứ 5 giờ sáng thức dậy đi theo bác ra lò mổ heo để phụ việc thì bác sẽ trả công bằng chút ít thịt vụn mang về nấu cháo cho con ăn. Được vài hôm thì mẹ không thể nào tiếp tục công việc được nữa, bởi mẹ biết được rằng mỗi sáng sớm lúc mẹ len lén thức dậy là lúc đó con cũng thức cũng nhìn thấy hết nhưng con cứ giả vờ nằm yên, chờ mẹ đi khỏi là con ra ngồi trước hiên nhà khóc thút thít, ai dỗ cũng không được! Con cứ ngồi ủ rũ như thế cho đến khi mẹ về mới thôi. 

Như vậy không xong, mẹ liền tự nghĩ ra phương kế khác để kiếm gạo nuôi con. Thấy thiên hạ đua chen nhau đi mua bán ở chợ trời tấp nập, mẹ cũng tập tành thử xem sao? Nhưng hỡi ơi ! Mới ngày đầu ra chợ không có kinh nghiệm gì, mẹ đã bị kẻ xấu lừa lấy hết tiền, thay vào đó là mớ tiền giả và một bịch giấy vụn. Không nản chí và không còn con đường nào lựa chọn để tìm kế mưu sinh cho mình và con; Mẹ phải đi hết xí nghiệp này đến xí nghiệp khác năn nỉ xin mua vải đầu cây, vải vụn rồi về nhà thức trắng đêm chế biến, ráp nối ra những bộ quần áo trẻ em mang ra vỉa hè chợ ngồi bán. Lần nào đi bán hàng mẹ cũng phải dắt con đi theo vì không biết gởi con cho ai. Còn con của mẹ thì là một đứa trẻ tội nghiệp và lanh lợi, gặp ai đi qua con cũng chạy lại nắm tay chào mời mua giúp hàng cho mẹ cháu đi. Thế rồi hai mẹ con mình cũng bán được hàng, kiếm đủ tiền sống lây lất qua ngày mà không phải nhờ vả ai. Một hôm, có người khách dừng lại nhìn chằm chằm vào hai mẹ con rồi lẩm bẩm: 

_ Sao lại ra nông nỗi này ?

Thì ra là chú Tòng, bạn cùng lớp với ba ngày xưa. Chú Tòng thấy hai mẹ con ngồi phơi nắng ngoài vỉa hè để bán mấy cái quần đùi trẻ em thì lấy làm ái ngại vô cùng:

_ Đi về ! thật là tội nghiệp cho cháu. Chị hãy mau thu dọn hàng hóa, lên xe em chở về. Chỗ này không thích hợp cho chị đâu.

Về tới nhà, chú Tòng dặn dò mẹ là hãy cố nuốt căm hờn, nhẫn nhịn quay trở lại trường để trình diện Ban Giám Hiệu mới, lấy quyết định đi dạy học trở lại. Cố gắng sống can đảm chờ đợi ngày ba con về. Chú bảo cái loại người như mẹ không thích hợp ở nơi chợ búa, có ra chợ buôn bán thì cũng bị lừa sạch vốn mà thôi. Thế là mẹ phải quay về lại trường cũ để theo học một lớp chính trị bắt buộc theo quy định rồi mới được đứng trên bục giảng.
Rồi mẹ cũng cho ra đời một đứa bé trai bụ bẫm. Thật lạ lùng! Không tiền mua sữa nhưng dù chỉ là nước cơm hòa chung với ít đường thôi mà em con cũng lớn mau, khoẻ mạnh nữa. Có những lần con giúp mẹ cho em bú thì con lại đút nhầm núm vú vào lỗ mũi của em, làm thằng bé ho sặc sụa. Hay có lần thấy em đi cầu, mà mẹ đang bận nấu cơm, con liền bế em bỏ vô chậu rồi cứ thế mà múc nước dội lên đầu em. Cũng may mà mẹ phát giác kịp thời nếu không thì em con bị nhiễm lạnh rồi.

Hơn mười năm dài mẹ một mình vất vả, lặn lội ngược xuôi nuôi hai chị em con. Con lớn lên, đỡ đần cho mẹ rất nhiều việc. Nhà chỉ có ba mẹ con, đôi lúc mẹ bận việc ở trường, bận tu nghiệp, hội họp; Một mình con ở nhà trông coi em, tự nấu tự ăn. Từ khi học lớp một, con đã tự mình đến trường không có mẹ, cha đưa đón. 

Có những lúc đang mải mê chơi với lũ trẻ trong xóm, chợt chúng ngưng ngang cuộc chơi rồi reo hò hớn hở vì trông thấy ba hay mẹ của chúng vừa về đến nhà.Tội thay cho con gái của mẹ còn lại một mình tủi thân, về nhà ôm lấy mẹ mà khóc: 

_ Mẹ ơi ! Sao ba lâu về quá.

Con gái của mẹ ơi! Con chính là điểm tựa trong đời mẹ đấy, con có biết không ? Hãy vui lên nào.

CHÂU HÀ
 

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?
Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử thì gặp một người đang đứng ở cổng nhà.
Người khách này ngăn vị học trò  kia lại hỏi: “Nghe nói thầy dạy của ngài là Khổng thánh nhân, như vậy thì học vấn của ngài chắc phải cao lắm. Ngài cho ta hỏi một năm có mấy mùa? Nếu ngài trả lời đúng, ta sẽ dập đầu quỳ lạy ngài, còn nếu trả lời sai thì ngài phải bái lạy ta.”
Vị đệ tử kia suy nghĩ một lát rồi nói: “Xuân, Hạ, Thu, Đông, có bốn mùa!”
Người khách kia cãi lại: “Sai! Có ba mùa!”
Vị đệ tử cảm thấy thực sự là kỳ quái nói: “Rõ ràng là một năm có bốn mùa, sao ngươi lại nói là có ba mùa?”
Đúng lúc hai người tranh luận không thôi thì Khổng Tử đi ra. Vị khách kia hỏi: “Thánh nhân! Xin ngài hãy phân xử, một năm rốt cuộc là có mấy mùa?”
Khổng Tử nhìn vị khách một lượt rồi nói: “Ba mùa!”
Vị khách vô cùng đắc thắng, quay sang cậu học trò của Khổng Tử: ‘Ngươi nghe đã rõ chưa, còn không bái ta một lạy tạ lỗi sao?’. Nói rồi đắc chí cười ha hả đi thẳng.
Cậu học trò thấy hết sức quái lạ, bèn hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Một năm rõ ràng là có bốn mùa, sao vừa rồi thầy lại nói là có ba mùa?”
Khổng Tử trả lời: “Con không thấy người kia sao? Đó là một con châu chấu biến hóa mà thành. Một năm, châu chấu chỉ sống có ba mùa, xuân, hạ và thu, nó đâu có biết mùa đông? Con tranh luận với nó chẳng phải là không bao giờ có kết thúc sao?” 
Vị đệ tử bừng tỉnh hiểu ra đạo ý cao thâm của bậc Thánh nhân: Tranh cãi với người không cùng cảnh giới là việc phí thời gian vô ích. Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện” (Nghĩa là: người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không phải thiện). Sự tu dưỡng, trưởng thành trong đời một người thể hiện ở việc làm, không phải ở lời nói, tranh biện. Xưa nay, phàm đã là chân lý thì đâu cần tranh biện?
(Ảnh minh họa)
(Ảnh minh họa)
Kẻ tiểu nhân nhầm tưởng rằng tranh luận không ngớt là khẳng định được chân lý thuộc về mình. Kỳ thực, chân lý vốn không thuộc về người, mà là đạo của vũ trụ. Việc của người quân tử là dụng tâm tu dưỡng đến cảnh giới của chân lý, gọi là giác ngộ, viên mãn. Kẻ tiểu nhân lấy cái ngu xuẩn của mình khăng khăng tranh luận cao thấp với người khác. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Đạo của bậc Thành nhân là làm mà không tranh.Một trong ba nguyên lý tu dưỡng tối cao của Phật gia chính là NHẪN. Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.
Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có một người mắng chửi ông. Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa.” Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó.” Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó.” Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi.” Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông nên thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật. 
Phú Bật chẳng phải chính là đã hành xử như người quân tử, không tranh biện với kẻ tiểu nhận. Đó không phải là nhu nhược mà là không để tâm vào những chuyện vụn vặt, lùi một bước biển rộng trời cao. Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Đời người quá ngắn ngủi và quý giá, việc cần làm lại quá nhiều, sao phải vì điều khó chịu mà lãng phí thời gian? Hiểu được cái đạo của người giả ngốc, bạn sẽ thấu một cảnh giới khác của đại trí tuệ.
Trong Luận ngữ, Khổng Tử giảng: “Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn vu sự nhi thận vu ngôn.” (Tạm dịch: Bậc quân tử ăn nhưng không cầu ăn no, ở không cầu an, nhanh nhẹn, minh mẫn trong việc làm nhưng rất thận trọng về lời nói). Lại thêm: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (Bậc quân tử thường chậm trong lời nói nhưng hành động thì nhanh nhạy). 
Rõ ràng là người xưa xem phẩm chất người quân tử là ở hành động, nói ít làm nhiều, lấy hành động chứng minh thay vì xảo biện, có nói cũng lấy khiêm nhường, đúng mực, thậm chí im lặng không nói. Kẻ tiểu nhân ngược lại, nói nhiều nhưng chẳng làm gì cả. Thế nên nhân gian mới có câu: ‘Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo…’ 
(Ảnh minh họa)
(Ảnh minh họa)
Một lẽ hết sức dễ hiểu là những người nhẫn nhịn không tranh biện bởi họ còn đang phải… miệt mài làm việc. Kẻ tiểu nhân làm ít nên rảnh rỗi nói nhiều, về bản chất thực sự không phải có năng lực. Người tài trí biết trân quý thời gian hữu hạn, một khi qua đi không trở lại nên dốc lòng toàn tâm toàn trí vào công việc, không muốn phí tiếc cho việc tranh cãi đúng sai. Tâm tranh đấu hơn thua cao thấp họ đã buông bỏ từ lâu…
Kẻ tiểu nhân khoa ngôn xảo ngữ nhưng thực ra mọi việc đều để người khác làm cả. Như vậy tranh cãi với kẻ tiểu nhân há chẳng phải hạ mình xuống bằng họ mà phí thời giờ vô ích sao? ‘Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết
Hàm ý là: Người thông minh không nhất định là kẻ học rộng. Người học rộng lại cũng không nhất định là người thông thái trí huệ. Bởi thứ quyết định trí tuệ của một người không phải ở tri thức tích lũy nhiều bao nhiêu mà là ở tâm thái cảnh giới tư tưởng cao bao nhiêu. Kẻ thông minh dùng khoa ngôn xảo ngữ để hùng biện. Bậc trí giả, ngược lại, đã tu dưỡng đến độ hiểu rằng, nói là một loại năng lực, còn im lặng là một loại trí huệ. Vậy há chẳng phải sống trên đời, không cần tranh cãi với kẻ tiểu nhân?
Lam Thư 
 

CẢM XÚC KHI ĐỌC THI TẬP TRĂNG NƯỚC BẾN BỜ XƯA

CẢM XÚC KHI ĐỌC THI TẬP
TRĂNG NƯỚC BẾN BỜ XƯA
Của UYÊN  THÚY LÂM
Duy Xuyên
Tôi nhận đuợc Thi tập của thi sĩ Uyên Thúy Lâm (UTL) gởi tặng. Thi tập do Tác giả xuất bản lần thứ nhất tại Hoa Kỳ và tác giả giữ bản quyền, vào tháng 3 năm 2015.
Tôi xin phép đuợc chia sẻ những nỗi trăn trở, khát vọng của THI SĨ Uyên Thúy Lâm muốn trình bày với chúng ta những vụn vỡ ngoằn ngoèo mà tình yêu - cuộc đời – Anh và Em - Nguời Tình của một thời ký ức đã vuốt mặt ra đi... và những nỗi đau đó vẫn còn tồn tại, đầy đọa trong cơn điên-tỉnh-ngủ của nhà thơ Uyên Thúy Lâm.
Nhà thơ Uyên Thúy Lâm cũng đã tâm sự với chúng ta:
"...Cá nhân tôi đến với thơ có lẽ cũng đon giản như nguời thi sĩ thuở hồng hoang, cũng dễ mềm lòng truớc nhân vật, cảnh vật, cũng dễ bâng khuâng với đất trời." 
Thật vậy, nhà thơ gốc nhà giáo Uyên Thúy Lâm đã viết lên những trang thơ thật phong phú, mang nhiều thanh âm của tình yêu đôi lứa:
"Lòng tự hỏi làm sao nguời thấu đuợc
Những u hoài năm tháng chất trong tim
Những trăn trở suốt một đời luân lạc
Chim cành Nam, ngựa ải Bắc mong tin."
 Tình yêu dù ở hay ra đi, buồn vui hay hạnh phúc cũng chỉ là những viên sỏi lăn mòn trong ký ức trên chặng đuờng của đời thuờng.
Còn thân phận con nguời như là chiếc lá bay qua cõi tạm rồi một ngày chỉ còn lại sự im lìm vô vọng. Nhớ về hay giữ lại, nhà thơ Uyên Thúy Lâm đã đưa chúng ta vào tâm tư ngậm ngùi với nỗi đau lạnh cóng của nguời tình khi xa nhau, nhưng vẫn còn hoài mong, luyến tiếc:
"Anh có biết quá nửa đời gian khổ
Diệu kỳ thay nguời tìm lại đuợc nguời.
Xin cùng lắng tiếng thì thầm trong gió
Chuyện nghìn năm mầu ký ức xanh tươi."
 (Tri Ngộ, UTL, trang 5). 
Nữ sĩ viết:
"Có phải mầu xanh của núi rừng
Của cành thông biếc lúc sang xuân
Của ngàn cây lá và hoa nữa
Em ở bên ta lúc... ngập ngừng..."
 "Có phải mầu hồng đôi má say
Cho đời thêm những nét trang đai
Bao nhiêu hoa đẹp trong vuờn thắm
 cũng sánh chưa bằng môi má ai?
(Sắc Màu, trang 69). 
*Chữ nghĩa của nhà thơ UTL thật giản đơn, quá mộc mạc nhưng thật gợi tình: "lúc... ngập ngừng...", "môi má ai?" Cho ta cái cảm giác ngây ngất, quấn quít vừa khêu gợi làm sao! Phải rồi, chàng vẫn còn ngập ngừng muốn hôn lên môi má của nguời yêu, nhưng chàng vẫn còn chần chờ chưa dám. 
Đối với cá nhân chúng tôi, Thi Tập “Trăng Nuớc Bến Bờ Xua”, có thể nói là những trang thơ hay, đuợc viết duới ngòi bút giản dị, mộc mạc của nhà thơ Uyên Thúy Lâm, nữ sĩ vừa cảm nhận đuợc, vừa nhớ lại từng chi tiết còn đang hằn sâu trong tâm khảm, để viết lại, như một nhiếp-ảnh-gia chuyên nghiệp. Nữ sĩ đã thu đuợc trong ống kính và nay nhà thơ mới cho chúng ta xem những phóng ảnh thực tế, đuợc chọn lọc trong không- ảnh của ngăn tim mà hình ảnh cực kỳ sống động.
Một tập thơ thật giá trị để cống hiến đến quý độc giả của nhà thơ Uyên Thúy Lâm với những tâm tình cao quý nhất, và có thể là những từ ngữ xuất phát từ nội tâm riêng của mỗi nguời trong chúng ta.
Thi Tập “Trăng Nuớc Bến Bờ Xua” là đứa con tinh thần đầu lòng của nhà thơ trong vòng vài tháng nay.
“Thi Tập” gồm 72 bài thơ, đuợc trình bày thật trang nhã trên 270 trang. Trong đó có 7 bài thơ đuợc phổ nhạc với các nhạc sĩ đã thành danh tại hải ngoại như: LMST, cũng Đan, Thiện Lý, Nguyên Long, với những ca khúc sau đây:
- 1/ Đan Chim Nhỏ (Nhạc Thiện Lý) trang 62.
- 2/ Thiên Thu (Nhạc Nguyên Long) trang 152.
- 3/ Lối Thu Xua (Nhạc Lộc Tòng) Trang 183.
- 4/ Giấc Mo Đầu (Nhạc Nguyên Long) Trang 203.
- 5/ Đâu Còn Em Bên Tôi (Nhạc LMST) Trang 213.
-6/Vuờn Hương Cổ Tích (Nhạc cũng Đan) Trang 221.
- 7/ Vuờn Hương Cổ Tích (Nhạc LMST) Trang 222.
 Thơ của nữ sĩ Uyên Thúy Lâm cũng là nguồn hứng cho nhiều thi nhân khác, nên thi tập của nhà thơ cũng đa đuợc nhiều thi nhân thành danh ở hải ngoại như Hoa Văn, Tuờng Vy, Lê Ngọc Kha, Vũ Linh Huy, Thương Anh, Tạo Ân, Nguyễn Thanh Ty, Tố Anh, Mây Hoài Hương, Tuấn ìinh, Nguyên Bông, Bùi Thạch Truờng Sơn, Ngô Tuởng Tiến, Thụy Hoài Như, Hàn Tuy Xát, Lộc Tòng, Song Phuợng, Vinh Hồ, Quỳnh Trâm Anh, Phi Bảo, Nguyễn Hoàng Linh, Cuồng Đao, Nam Thảo, Tuấn Đình, Lê Dung Phạm Phú, Nguời Xứ Vạn, Duy Quang, Trần Minh Hiền, Lê Phi Ô, Lãng…, Trần Doãn Nho, Trăng Ngàn, Lê Thị Hoài Niệm, Trần Thu Miên, Mây Hoài Hương.. *Xuớng - *Họa.
Do đó, chúng ta có dịp may mắn để nghiền ngẫm, ngấu nghiến từng chữ, từng lời của ý thơ rất linh động, để ta có cái hạnh phúc to lớn quá đỗi đó! 
Ngoài ra, Thi Tập của nhà thơ Uyên Thúy Lâm cũng đuợc các nhà văn tên tuổi của hải ngoại đã viết những Cảm Nhận, Những Giòng Giao Cảm, Đọc Thơ... của nữ sĩ như:
1/ Nhà thơ, nhà văn Vinh Hồ, Chủ Tịch Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ.
(Cõi Thơ Uyên Thúy Lâm, Điệp Khúc Chia Ly, Hoài Vọng, Thuong Mhớ, Đi Tìm.Trang 12)
2/ Nguyễn Triệu Việt: (Những Giòng Giao Cảm Về Nữ Thi sĩ UTL. Trang 33)
3/ Hoa Văn: (Vài Lời Giới Thiệu. Trang 125)
4/ Trần Minh Hiền
(Đọc Thơ Uyên Thúy Lâm. Trang 137).
5/ Thuong Anh
(Đôi Dòng Về Nguời Thơ UTL. Trang 185)
6/ Tạo Ân:
(Nỗi Khát Khao Một Đời Tìm Mãi. Trang 234)
7/ Trần Thu Miên
(Dòng Thơ Nữ Việt Lãng Mạn. Tramg 247).
8/ Trần Doãn Nho:
(Đôi dòng Về Nhà thơ Uyên Thúy Lâm. Trang 228).
 Nhà Văn Vinh Hồ đa viết:
"Cõi thơ Uuyên Thúy Lâm vừa trử tình lãng mạn, vừa đoan trang mẫu mực, mộng thực đan nhau. Có những khổ thơ tả cảnh thần sầu, cũng có những đoạn thơ tả tình tinh tế. Nơi đó, đạo đức phẩn hạnh của nguời phụ nữ VN đuợc tôn cao." (Trang 12.)
 Ta thử đi tìm cái vừa trử tình lãng mạn trong thơ UTL mà nhà văn Vinh Hồ đa nhắc đến:
Thật vậy, thơ UTL trữ tình, lãng mạn thật:
*Trử tình:
"Trong cũng cấm sao chàng lặng lẽ
Không cuời vui bên thiếp hiền ngoan
Chung mỹ tửu chiều nay uớp lệ
Chàng không vui, lòng thiếp ngỡ ngàng."
Rồi:
"Chàng đi ngàn dặm ngoài biên ải
Lòng thiếp theo chàng đến cố cũng"
Và:
"Thẩn thờ gối chiếc canh thâu vắng
Một nửa vầng trăng luống bẽ bàng!"
 * Lãng mạn:
"Khúc Nghê Thuờng xiêm y rực rỡ
Ruợu bồ đao cùng uống chung môi"
(Tình Sử Cổ Loa Thành, trang 76).
 UTL đa viết, lời thơ rất mộc mạc, giản đơn nhưng chan hòa tình cảm.
Thơ UTL vừa trữ tình, vừa lãng mạn, đôi khi nữ sĩ để cho con tim của mình tuôn trào theo những dòng nghi thật lãng mạn như sóng vỗ tràn bờ nhưng sau đó nhà thơ đa dùng lý trí để kìm hãm con tim như thủy triều đang dâng, mà nhà thơ đa đưa hồn thơ từ lãng mạn về trữ tình rồi sau đó nữ sĩ đã dùng ngòi bút điêu luyện của mình chuyển những dòng thơ đó trôi về cổ điển:
"Hẹn sẽ chờ nhau dù trọn kiếp,
Đuờng bao xa, núi cách sông ngăn.
Ta vẫn tìm nhau trong giấc điệp
Tay trong tay như đã bao lần.).
(Đi Về Có Nhau, trang 114).
 “Thi TậpTrăng Nuớc Bến Bờ Xưa” cũng đã đuợc Nguyễn Triệu Việt, cây bút gạo cội của Bán Nguyệt San Văn Nghệ Tiền Phong viết Những Giòng Giao Cảm.
*Ông viết:
"Thơ của chị sang cả, tuyệt vời. Chữ nghia lồng lộng diễm ảo như khói suong, đủ để đắm say lòng nguời lữ thứ."
(Những Giòng Giao Cảm...
 Trang 33).
*Ta thử đi tìm Chữ Nghia Lồng Lộng của Nhà thơ UTL:
* Diễm ảo Như Khói Sương:
" Hàng cây đọng bóng lung chiều
Sương mù Đa Lạt gợi nhièu nhớ thuong"
 "Cà phê Thủy tạ suong ngàn
Phở Tùng thuở ấy vội vàng chia tay."
 "Dốc Bùi Thị Xuân mưa tuôn
Áo em đẫm uớt cùng thuong dáng gầy."
(LANG-BIANG ĐÓN BUỚC EM VỀ, trang 141) 
Thật vậy, thơ UTL như sương như khói, khi muốn nói đến hình dáng của một nữ sinh, chiều tan truờng về, bất chợt mưa tuôn... Có những giọt mưa ngâu từ mái tóc nhiễu xuống, chảy dọc theo đôi má trắng ngần, từ từ lan ra thân áo dài mỏng truớc ngực, vai gày sau lưng làm chiếc áo dài bị nuớc mưa đẫm uớt... Gợi cho tôi thấy dáng nàng e thẹn vội vã buớc nhanh về nhà, cho tôi muờng tuợng đuợc chiếc áo dài mỏng dính bám vào da thịt, rồi vai gầy lồ lộ...
Từng nhịp đập bồi hồi!
Nhà thơ đa dừng lại ở đây, vì ngòi bút của UTL lúc nào cũng đoan trang mẫu mực. Viết để cho nguời đọc tự hiểu, tự muờng tuợng, do đó tôi đã hình dung đuợc da thịt trắng nuồn nuột của một nữ sĩnh đi duới con mưa. Tôi cắn chặt răng môi. Da thịt đi hoang. Xương tủy r
p rờn trong thân thể. 
Thơ của UTL thật lãng mạn nhưng chừng mực, dừng lại để nguời đọc phải tức tuởi, tò mò... 
*Tạo Ân đa viết: "Ở Uyên Thúy Lâm, thế giới ão trải rộng và hấp dẫn hon đời thuờng vì lý trí phải lùi lại để dành chỗ cho tiếng nói của con-tim-ngọt-đắng của gặp-gỡ chia-ly..."
(NỖI KHÁT KHAO MỘT ĐỜI TÌM MÃI..., trang 234)
Nhà thơ, Nhà Văn Tạo Ân đã chỉ cho ta thấy cái bạo dạn phá cách trong tình ý của nhà thơ nữ UTL dã cho chúng ta đọc những dòng nghi mà nội tâm rất thóang...
"Ta bên nhau chung lời Thơ thân ái
Nguời bên nguời dòng nhạc đuợm nghia ân.
Đời tha phuong nhớ ngày xua có phải
Vọng cố huong hồn theo áng mây Tần.
 Này đa qua đoạn truờng chinh máu lửa
Lạc mất nhau hun hút đa tàn hơi.
Đời dun rủi diễn đan này hội ngộ
Giữ chân tình, dù năm tháng mù khơi.
(Tri Ngộ, trang 5)
  
Xin Mời Quý Độc Giả, đọc bài :
“ Đoàn Quân Đi" (Trang 193),
Mùa Thu đã hoe vàng theo sợi nắng
Hoa cúc nở thờ ơ triền suối vắng
Mắt ai hoài xao động bóng quân đi
Chiến địa hoang tàn ghi dấu phân ly
 Đuờng hành quân sục sôi miền nắng cháy
Ta biết em ngóng chờ tin chua lại
Đồng đội còn bên chiến luy hào sâu
Nên đời ta vẫn cách bến giang đầu
 Ầm ào vọng phía truờng son vách núi
Đoàn quân đi chập chùng làn mưa bụi
Vẳng thôn xa nghe tiếng mẹ ru hời
Ngủ ngon con, cha về lúc yên vui
 Trong gió lộng vang vó câu chiến mã
Nắng cháy da hay mưa rừng tơi tả
Tạm hiến thân này cho đến tàn hơi
Đâu thể buông guom súng ngủ bên trời!
 Tháng năm qua tóc pha màu suong tuyết
Trong lớp nguời viết sử xanh hùng liệt
Tổ quốc truờng tồn qua Đinh Lý Trần Lê (9 chữ)
Thì em ơi, em cố đợi ta về!.
 *Chỉ trong 20 câu thơ tự do, 19 câu 8 chữ và 1 câu 9 chữ. Tổng cộng 191 chữ. Nhà thơ đã cho ta nghe thấy …rừng, suối, lá, gió, trời, gió nắng, mưa, hoa, mắt em, mây, sợi nắng,, chiến địa, chiến lũy, giao thông hào, bến đợi, vách núi, mưa bụi, thôn xóm xa xa, tiếng mẹ ru con, guom súng, suong, tuyết, có cả một trang sử oai hùng...Thơ UTL có:
NẮNG:
"Mùa Thu đa hoe vàng theo sợi nắng"
Rồi:
"Đuờng hành quân sục sôi miền nắng cháy"


MƯA:
... "Nắng cháy da hay mưa rừng tơi tả"
 GIÓ:
"Trong gió lộng vang vó câu chiến mã"
 Thơ UTL cũng có suối, có vách núi:
"Hoa cúc nở thờ o triền suối vắng"
 Vách núi:
"Ầm ào vọng phía truờng son vách núi" 
Thơ UTL cũng mang đậm nét tình nguời:
"Ta biết em ngóng chờ tin chua lại"
 Tình bằng hữu, tình đồng đội với những trăn trở của nguời lính:
"Đồng đội còn bên chiến luy hào sâu
Nên đôi ta vẫn cách bến giang đầu!"
 Những kỷ niệm ùa về khi gặp lại nguời tình cu năm xua trên đuờng hành quân vội vã, ta đanh bỏ em lại:
"Thì em ơi, em cố đợi ta về!"
 Thật vậy, có ai khỏi rơi lệ, khi đọc tâm tình của UTL qua lời thơ mà nữ sĩ đa viết: 
Mẹ mãi mãi là ngôi sao cao cả không thể mất trong lòng mọi nguời. Mẹ thiêng liêng không có gì thay thế. Mẹ luôn là đề tài cao quí nhất không thể thiếu trong tâm hồn những nguời văn nghệ si. Như trong THI tập thơ UTL đa viết về MẸ rất nhiều:
"Mẹ vẫn nặng mang gánh nợ trần,
Xuân nào thăm thẳm mắt bâng khuâng.
Nhớ con biền biệt đồn xa vắng,
Thuong nuớc ngậm ngùi mong cách tân."
(Mẹ và Quể Huong, trang 23).
 Đọc bài thơ
Tôi có cảm giác như từ một nơi nào đó thật xa, tiếng nhạc rừng khuya vang vọng lại, mỗi lúc càng gần hơn, thanh âm nghe đìu hiu, xoáy vào tim óc làm tan nát lòng nguời đọc.
Tôi im lặng, trầm ngâm trong suy tư chìm nghỉm với điệu nhạc buồn và thả hồn mình theo từng giai âm với nỗi thuong đau, lắng sâu trong tâm hồn qua thơ của UTL như có tiếng nhạc: “-
 Theo tôi đuợc biết UTL là một Nhà thơ đã thành danh ở hải ngoại. Nữ sĩ thuờng làm thơ về các nguời lính bị tập trung cải tạo trong những trại giam của Cộng Sản sau 1975.
Qua một vài bài thơ tiêu biểu, chúng ta thấy UTL luôn luôn trăn trở với cảnh đời Thương Binh, đau xót với vận nuớc đổi thay. Nhất là Mẹ VN phải chịu bao oan khiên của suốt chiều dài lịch sử.
 Riêng bài thơ Lời Nguời Thương Binh là một tuyệt tác, bất hủ vì đó là một bài thơ hay mà khi chúng ta đọc đuờng như là một bản đại hòa tấu với muôn ngàn âm thanh lẫn lộn trong có tiếng nuớc chảy suôi dòng, có tiếng động của hoàng hôn tím thẫm, có tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi của dông bão, tiếng mưa chiều rít vang vọng, rồi nghe hồn mình đơn lạnh của Nguời Thương Binh trở về với năm tháng từ cuộc chiến xa xua...
"Tôi đứng lặng hoàng hôn tím thẫm
Nghe chiều buông mờ nhạt thinh không"
 Những âm thanh đó, những âm thanh, quyện vào nhau thành một cõi hồn tê dại của Nguời Thương Binh, "Tàn phế còn đây cuộc sống thừa" như bản truờng ca bất hủ hòa với tiếng khóc của Nguời Thuong Phế Binh và tiếng nấc nghẹn ngào của Nguời tù cải tạo sau 75, bị nguợc đãi...
 Trong một bài thơ khác, nhà thơ UTL chỉ viết có 6 câu thơ Lục Bát,, cũng chỉ vỏn vẹn có 42 chữ mà thi sĩ UTL đã tạo đuợc cả âm điệu của nhạc, gợi cho những cựu tù phải liên tuởng với nhiều âm thanh hòa lẫn trong đó có quang cảnh trại tù trong một chiều thu dần xuống của một khu rừng già nằm sâu trong những cánh rừng trùng trùng điệp điệp xa phố thị muôn dặm với vầng mây bay thật thấp mà đời tù tội thao thức từng đem từ năm này qua năm khác, rồi mơ về những chiến thắng từng giờ với nỗi nhớ nguời mẹ già, bày con thơ, cha già không nơi nương tựa. Khoảng không gian vô định vào một chiều thu tắt nắng, khi những vầng mây bay thật thấp rồi bỗng chốc có ai đó cất tiếng khóc làm cho các cành cây đang ngủ cũng phải thức giấc để lắng nghe và những chiếc lá rừng cũng phải khóc cho thân phận của Nguời Thuong Binh …
"Về quê sau cuộc chiến xuân xua
Tàn phế còn đây cuộc sống thừa
Tiếp nối đa bao mùa dông bão
Dãi dầu với sớm nắng chiều mưa"
(Lời Nguời Thuong Binh, trang 215) 
Những bàng hoàng rồi cũng qua nhanh, tình yêu vẫn là giọt nuớc long lanh huyền ảo, cho dù đó là giọt nuớc mắt tinh yêu mặn đắng với kỷ niệm chập chờn, với ký ức bùi ngùi, với ngỡ ngàng nuối tiếc thì lòng thi nhân vẫn giữ lại chút xao xuyến để nhớ về. Một nơi với buớc chân trên cát, với sao đem, với tiếng sóng vỗ vào bờ của đem nao biển vắng. Và nơi đó bây giờ không biết anh ở đâu?!
"Tìm trăm phuong mỏi cánh chim
Buợt qua ải bắc, xuôi thuyền sông nam
Rừng sâu nuớc yhẫm suong lam
Ân tình mấy độ sắc huong thắm nồng.
Trách Ai ngày tháng phiêu bồng
Để nguời phương cũ còn phong nụ cuời.
(Tìm nhau, trang 220).
Làm sao mà tìm đuợc, khi nguời lính ra đi mải miết chua hẹn ngày về, nguời tình ở lại cũng chua một lời hẹn uớc... Đất trời đổ sụp, nguời lính chưa thua trận, nhưng nghiệt ngã đa phải bị vào tù, thì dẫu Nguời Yêu Của Lính cũng không biết đâu mà tìm...
Họ đa bị giam từ Trại Cải Tạo Lam Sơn, rồi cũng Sơn, rồi A30, rồi xác bị chôn vùi trong trong một khu rừng rậm nào đó thì biết đâu mà tìm...
Trong tâm hồn nhà thơ UTL chợt có những nỗi buồn bất thuờng. Đêm đêm duới ánh trăng xuyên qua song cửa sổ, nhà thơ chắc đã tìm bóng dáng ai trong tinh lặng, nhắm mắt lại để giữ nguyên vẹn hình ảnh đó khỏi xóa nhòa trong trí nhớ và đêm đêm trong giấc ngủ cô đơn, hồn nguời thi sĩ chết lịm trong đam mê mà nữ sĩ đã luu giữ đuợc. Những hình ảnh cô đơn đó, để mãi đến hôm nay nhà thơ viết lại theo trải nghiệm để có thể cho chúng ta một hoạt cảnh… có mây, gió, tiếng thương nhớ âm thầm, tiếng ru văng vẳng của tình khúc buồn dịu vợi.
Thơ UTL có nỗi nhớ hoang đuờng. Thơ UTL có bóng dáng ai đó trong khoảnh khắc khó quên mà nỗi nhớ tháng ngày chưa hết. Tình Nguời thi sĩ rất thủy chung…
"Gió lay cành biếc vang vang động
Hình bóng ai còn ngự đáy tim!
(Xao Xuyến Lòng Đon, trang 224).
Ai đó, nguời tình nào, nguời lính nào, hay nguời tù cải tạo nào mà đuợc cái hạnh phúc quá đỗi mà UTL vẫn còn dấu mãi trong tim.
 Thơ Linh Vũ làm cho tôi mềm nỗi nhớ!
UTL là nhà thơ lãng mạn, nữ sĩ không quên và nhất định nhà thơ không bao giờ muốn quên bất cứ một ai.
"Tuởng đa trôi xa cùng tháng năm
Biết chăng thuong nhớ vẫn âm thầm
Thềm xua trăng giải mây phiêu lãng
Ta với niềm riêng đem lặng câm.
(Xao Xuyến Lòng Đơn, trang 224)
Thật vậy, trong Thi tập thơ nữ sĩ đã viết rất nhiều bài thơ thật lãng mạn, nhưng tâm hồn nhà thơ rất đoan trang, chừng mực, dù biết đợi chờ trong vô vọng, nhưng cái tình cao quý của nguời phụ nữ Việt Nam, nhất là vợ của những nguời tù duới chế độ cộng sản.
"Nuớc chia trăm ngả, đời trăm huớng
Sao vẫn hoài mong phút hạnh phùng.
(Thơ UTL trang 224)
"Ngày đó
Tai họa nào cắt đoạn đời anh,
Bão bùng nào vùi lấp chuỗi ngàyxanh!
Dêm anh khôngt quay về nữa.
Anh biết chăng bên góc trời mưa gió,
CCòn một nguời lặng lẽ thức chờ anh.
(Trở Lại Nghìn Năm, trang 65).
Tôi đọc những câu thơ trên với một cảm xúc thật mạnh. Òa vỡ!
Tôi nghe thấy rõ hình dáng của mõt thiếu phụ trẻ mất nguời yêu, trải ngthiệm qua những đêm thao thức chờ sáng, ngồi úp mặt trong lòng bàn tay, lắng nghe từng tiếng động nhỏ, đang âm vang, mà tuởng chừng như tiếng chân chàng về. Có những đem như đem nay, ai đó nghe lòng mình hối hả, rung rung giọt nhớ, ngồi thơ thẫn, nghi về nguời yêu, khi trăng mớm tình về, rồi chợt nghe cô đơn.
Trong những giây phút này, nguời vợ mới kịp nghi về cảnh đời hiu quạnh. Nguời vợ ngồi chông đèn leo lét. Ánh sáng đìu hiu, nhạt nhòa trong hơi thở dài. Buồn tênh!  
Nguời viết rất cảm động vì tấm lòng cao cả của UTL đối với những ai đuợc nhà thơ UTL yêu, Ở đó có thể là hạnh phúc hay đau khổ của cuộc đời nữ sĩ vẫn luôn trân quí vì đó chính là sắc màu trong bức tranh và cuộc đời.
Hai muơi năm, ba muơi năm hay lâu hơn nữa sẽ có bao nhiêu đem? Thời gian cũng khá dài nhưng cũng không dài mà khi cuộc đời, hay sự đợi chờ vô vọng dù là buớc chân khe khẽ của ai đó bên kia nỗi nhớ, hay một nguời lính tình cờ cùng vui lối buớc, giữa buổi dừng quân…
Thật vậy, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo UTL đã viết lên những đặm nhớ vời vợi…
" Những đông xám lạnh buồn nơi đất khách,
Nhớ làm sao lửa ấm mái tranh chiều.
 Nhưng tôi vẫn thích cái Nắng trong thơ UTL.
Trăm năm trong lòng nhà thơ UTL vẫn mong tìm... những giọt nắng. Lúc thì nắng trong lòng, rồi nắng sớm đầu hè...nắng tràn đầu ngõ.
Thơ của nữ sĩ UTL đã viết nhiều về nắng để thôi thúc Nắng vội vã về tim tôi để tìm về ký ức cũ và nắng gợi nhớ dòng suối xưa.
(Nắng nhẹ nhàng như giọt nhớ đơn côi. Tôi nhặt một hạt nắng lên trên hai đầu ngón tay, nắng vỡ vụn thành đôi. Một nửa lung linh như giọt nhớ - Mắt Em Tôi.
Nửa kia vụn vỡ như ai đang khóc. Ngỡ ngàng!)
 Nguời Thi sĩ đã nhìn xuống bóng tối mênh mông, đôi mắt ai?... to, tròn, sâu hun hút như một loài hoa Phuợng tím, ai tìm thấy di vãng đang rạo rực trở về trong nỗi nhớ… 
Ngọn đồi nào nhà thơ UTL đã dừng chân trong một chiều rất lạ mà nghe từng giọt đắng rền vang trong cổ họng.
" Phan đinh Phùng khi hoàng hôn giăng tím,
Một mình tôi trên lối cỏ lan buồn.
... Vì đa mấy dặm sầu về ngăn lối
(Về Qua Truờng Cu, trang 157)
  UTL, đa dùng những chữ nghia quá đon giản, mộc mạc như tâm tình của Nguời...
“ Hàng sao cao vút xạc xào trao lời gió,111111111
Suong lạnh đầyvà nhưng nhớ về theo,
Trên lối này khi nắng sớm mưa chiều,
Ngày xua buớc học trò bao vuong vấn”
(Về Qua Truờng Cu, trang 157)
 Những từ ngữ rất giản dị như hàng sao, cao vút, reao lời, suong lạnh, trên lối này, học trò..."
...Những từ ngữ rất bình dân, đon giản, thô thiển nhưng rất linh động khi đuợc nhà thơ ghép lại thành thơ thì quả nhiên lại trở thành phong phú trong thi ca riêng biệt khó tìm thấy bất cứ ở đâu.  Cũng nơi này, trong Thi tập thơ Trăng Nuớc Bến Bờ Xua, với 257 trang thơ, đuợc in ấn trên giấy thật dày, với bìa sách Trăng Nuớc trình bày thật trang nhã, hài hòa mà lời thơ – tim-nhịp- phách - từng giờ.
Làm sao Nhà thơ, Nhà Văn, Nhà Giáo, UTL có thể quên đuợc những chiều hành quân, dừng chân bên bờ rừng, nơi đây cũng có thể là gác trọ, để sáng hôm sau vội vã xâm nhập cứ điểm của địch với chiến thắng vang dội.
Tôi thấy vầng trán nhà thơ thật cao, với ánh mắt kiêu hãnh của một Nhà Giáo, năm xưa đã trải qua quá nhiều gian lao trong đời thuờng. Nhưng nơi trú ẩn bình an nhất vẫn là dòng sông Mẹ, nơi yêu thuong hạnh phúc nhất vẫn là vòng tay Mẹ chở che.
Trong bài “Mẹ Chờ Bên Bếp Lửa, trang 196), nhà thơ đã viết:
"Bao lâu rồi mẹ còn đây cô quạnh
Giữa thôn làng xa khuất tháng năm qua
Ngày nắng hạ đến chiều đông mưa lạnh
Lủi thủi một mình mẹ nhớ về xa."
Lối so sánh của nhà thơ quả là phong phú.
Chiều về, nằm nghe tiếng sóng vỗ thì thầm trên dòng sông mẹ reo róc rách, trầm buồn, xa vắng, bên đời con tuổi dại. Cảnh đời thuờng của nhà thơ chảy miệt mài cả đến tuong lai và Mẹ của nhà thơ UTL đã tuới cánh đồng THƠ của nữ sĩ thật tuơi sáng và tóc Mẹ đã rụng trắng đầy vai, mà hồn nhà thơ hoang vắng … đìu hiu với những đám mây trôi lờ đờ thật thấp, bầu trời màu tím, màu tím của nhớ thuong. Tâm tu nhà thơ lững thững, chợt thấy nhớ Mẹ diệu vợi mà thả hồn theo mây bay lang thang … cuối trời.
"Bao tháng năm mẹ một mình một bóng
Khóc quê nhà và khóc lá xanh rơi!"
Thật vậy, trái tim mẹ cho tôi thành nỗi nhớ.
Cám on UTL, đã viết giùm tâm tư của tôi mà cũng có thể cho nhiều nguời khác, khi tuổi già, ngồi nhớ Mẹ:
Thơ UTL làm tôi nhớ đến Mẹ tôi vô cùng.UTL đã mô tả tình mẹ thương con, lo lắng từ miếng ăn giấc ngủ, canh bắt từng con muỗi mỗi khi đem về làm tôi nhớ đến những ngày bị đọa đày trong lao tù CS.
Đêm đó, tôi đi lao động về muộn chỉ biết nằm lăn ra tìm giấc ngủ thật nhanh, nhưng đàn muỗi không chịu tha, đã thi nhau chích không ngừng nghỉ cái thân già còm cõi của tôi. Suốt đêm không ngủ đuợc, tôi thao thức nhớ đến mẹ già năm xưa ngồi canh chừng bắt từng con muỗi cho tôi an giấc. Bây giờ trong chốn lao tù mới thấy lòng mẹ bao la như biển cả. Giá như có Mẹ bên cạnh thì tôi đâu bị loài muỗi cắn nát thân tù.
Tôi đọc thơ UTL với một cảm xúc thật mạnh mẽ như nguời vừa nghe đuợc tiếng thơ.UTL, thôi cứ để cho Thi tập thơ chấp cánh bay cao theo cơn gió lạnh năm nay 2015, trôi qua thật nhanh. Biết đâu trong một khoảnh khắc nào đó, dư âm của lời thơ sẽ quấn quít, quyện vào những giọt nhớ, thơm ngon trên môi, vẫn còn phảng phất đâu đó và biết đâu trong tâm hồn của nguời nữ sĩ, hiền hòa vẫn còn âm ỉ bóng dáng ai, đang đứng đứng đợi tại một cổng truờng điểm hẹn... ngày xưa ấy. Một cựu giáo chức chưa già với chất thơ trữ tình để có khi nàng phải khóc, ảo ảnh cả một đời nguời.
Mỗi một nguời đều có một cái gì đó để nhớ để thuong, để ru đời mình vào giấc ngủ no say. UTL cũng đã có những vết thuong đau chưa lành. Thơ nữ sĩ rất thanh thơát nhưng cho đến bây giờ vẫn còn nghẽn ở một chỗ nào đó trong những ngăn tế bào, mà nhà thơ thỉnh thơảng tuôn trào dòng nghi như nuớc tràn bờ. Nhờ vậy mà chất thơ của UTL, bao giờ cũng mang một chút ít hiện thực rồi đưa độc giả đến ngồi cạnh một thiên đuờng, bên bờ triết học sâu xa, mà nếu không chịu khó tìm những ý tuởng tiềm ẩn thì tuởng là đơn thuần nhưng thực chất lời thơ mang nghĩa bóng của đời thuờng.
Thơ UTL thật hay. Thanh thóat và tuyệt vời. Giản dị nhưng bao hàm trong đó còn chất chứa những cũng bậc của nhạc. Bài thơ “Đâu Còn Em Bên Tôi” đa đuợc Nhạc sĩ tài danh LMST phổ nhạc và tôi đã nghe đâu đó có tiếng chập chùng duới đáy ly cà phê buổi sáng vừa thức dậy./-
Duy Xuyên
Tacoma
 
 
Mùa thu trong màu mắt nhà thơ Giáo Sư Thái Bạch Vân
( Thu Sầu Hoang Phế - trang 469.)
Trong đôi mắt của nhà thơ Giáo SưThái Bạch Vân, bất chợt tôi tìm được những giọt sương thu, qua các màu sác mà nhà thơ diễn đạt "thu" trong các tình huống khác nhau, lúc thì sương thu , lá thu, mùa thu, gió thu, thu cũ, thu buồn, rồi hương thu, bóng thu gầy, với nắng Thu trong thu sầu hoang phế ... đã trải dài trên các nẻo Rừng Thương có mây giăng mờ lãng đãng.
 
Thật vậy, thơ của cô Thái Bạch Vân quả là những vầng thơ Tuyệt Tác, vừa uyên bác trong những từ ngữ thật đơn giản, mộc mạc nhưng đã để lại trong tôi những cảm nhận sâu sắc vừa rung động vừa ngơ ngác, bùì ngùi qua những lời thơ in dấu vết thật trữ tình và rất lãng mạn.
 
Thơ của cô Thái Bạch Vân có nắng thu buồn ngơ ngác, có sương thu, có gió thu mang tiếng cười, có sương, có lời gió, có mây giăng, trời lồng lộng, mà nhà thơ đã tô màu sắc vàng hút bóng ai, qua các phong cảnh hữu tình và nhất là có bóng dáng ai gầy lẻ loi và màu mắt ai mà ai đã mòn mỏi, mải miết đi tìm trong muôn ngàn kiếp xa xưa.
Ngay như trong bước chân ngọc ngà của Người Thơ ... cũng có những giọt sương  thu vừa trừu tượng vừa lãng mạn cũng có lúc ... nắng thu buồn ngơ ngác se lạnh trên da thịt người đọc...cũng có lúc như ai đang khẻ ôm vai đi bên cạnh.
Trong bốn câu thơ tràn đầy thi vị dưới đây; trong bài 
"Thu Sầu Hoang Phế" nhà thơ đã nắn nót viết. Và thu thành những sợi nắng, cho ta cái cảm giác nắng lung linh, lưu luyến, quyện  theo chân ai đang nhè nhẹ gót  hàí vì sợ hương thu bay mất hút.
Rồi có bóng dáng ai gầy lẻ loi đứng ngóng đợi để hương thơ tròn ý mộng. để thu khỏi hoe vàng theo sợi nắng
 
Mà tình ai trao gởi chút hương thơ, mà dáng ai xao động bóng thu sầu.
Cô Thái Bạch Vân tâm sự.
“Rừng Thương giờ ngóng đợi
Gió thu vọng tiếng cười
Tình thu sầu hoang phế
Hương thơ nhuốm ai hoài”
mà nẻo thương ngõ nhớ …
“ Và em đó, vừng trán mênh mông
 
Nụ cười buồn, hương thơ phảng phất” sục sôi mà núi rừng có chùm lá thấp và tình thơ đẹp như mơ.
 
Gió thu bây giờ đã được nhân-cách-hóa thành những tiếng cười lung linh trong khu rừng thương, có mây giăng, có gió gội, và còn có lá thu rũ bên đồi.
Rừng Thương
Còn có nắng thu, để ta bắt nắng đem vào hiên nhà, vì nắng đã biết cười, reo vui trong ánh bình minh ngợp trời Thu rộng mở.

Người thơ vẫn biết có người cháu trai nhỏ ngóng đợi bên rừng thương, với nỗi buồn ngơ ngác mà chút duyên thơ chưa kịp trao gởi thì lá thu đã rũ bên rừng vắng, nhưng bóng dáng người thơ bao giờ cũng muốn có người đi bên cạnh mình biết làm thơ:
 
“…Tuấn ngước mắt nhìn bà, ngập ngừng đọc:
“Nắng mai trải lụa trên đường
Gót hài rảo bước, nhẹ vương ánh vàng”
Ngẫm nghĩ một chút Tuấn đọc tiếp:
“”Thì thầm gió gọi thu sang
Đẩy đưa buơm lá lang thang cuối rừng”
(Rừng Thương với Duyên Thơ Kỳ Ngộ - Thái
Bạch Vân, trang  467)
Chùm thơ trên, thật vô cùng lãng mạn, như định nghĩa theo chiết tự trong văn hôc thì lãng mạn là nước vỡ tràn bờ, để cho con tim tự do buông trào mà không cần dùng lý trí để kiềm hãm con tim, nhưng cô Thái Bạch Vân đã biết dùng lý trí buộc chặt khe tim mình
lại và lý trí đã theo cô trở về hiện thực mà văn học gọi là trữ tình:
 
Tôi (cô Thái Bạch Vân) nói như reo:
“Ồ! Hay lắm! cháu đang có nguồncảm hứng, lúc này là lúc cháu làm được Thơ đó, bây giờ thì cháu hiểu phần nào lời bà ngoại cháu nói rồi chứ?
Rồi từ đó, Tuấn là người bạn Thơ nhỏ của tác giả.
Và trên một triền suối bơ vơ, có hình dáng người Thơ đang dõi mắt theo bóng ai mà thu sầu hoang phế; theo lá rơi, rụng bớt ưu phiền.
Chao ôi! ... Tình của người thơ trong rừng thương,  uy chưa trao lời, chưa một lần ước hẹn mà vẫn âm thầm theo bóng dáng ai. Thật vô cùng lãng mạn và hoang đuờng như trong một câu chuyện cổ tích ... mà người đi chưa một lần hò hẹn mà Phà Ca, người thơ Rừng Xưa ở lại dõi mắt trông chờ.
 
 Ai đã đi trên những sợi nắng, rồi nắng cũng sẽ đìu hiu da thịt.
 
"Núi Rừng Thương có ai đón đợi
 Ta cũng biết ai ngóng chờ tin chưa lại”
 
Phải rồi, đoàn quân đi chập chùng trong gió thu vọng tiếng cười ... để mắt ai mòn mỏi chờ mong.
Thơ Thái Bạch Vân cho ta cái cảm giác mơ hồ, một khung cảnh vô cùng lãng mạn, khi  chú nai vàng vội vã đi qua, dưới cái thu sầu da diết, để nhà thơ giáo sư Thái Bạch Vânhải ngậm ngùi:  
"Hương thơ nhuốn ai hoài"
 
Hồi xưa, cái thời cổ tích đó, buổi sáng người lính phải lê chân nặng nề vì những cơn nắng gắt đến cháy da cháy thịt nhưng chiều về rừng núi lại mưa như thác đổ. Rừng thì thưa, rừng lá thấp không ôm chặt được người lính đang ẩn mình trốn mưa, ướt tơi tả trên thân thể người lính, lạnh buốt thấu xương.
 
Rồi trong một bài thơ khác, náng không còn là cái nắng cháy, mà nhà thơ đã cho ta cái nắng sớm lung linh trong bước chân người sinh viên ôm cặp đến trường :
 
thân yêu ngày trước
 
chẳng ai trao cho ai một ánh mắt, một nụ cười mà sao giờ đây, mắt m ỏi, lưng còng nhưng chưa ai tìm về đuờng xưa lối cũ. Và riêng tôi chỉ mong gặp lại ngưới ấy.
Tôi xin thề, tôi chẳng dám nói gì với em. Tôi chỉ xin em, cho t ôi đứng im như tượng đá, để chỉ nhìm em trong ánh mắt dại khờ.
Chỉ xin một lần này thôi, đời cũng thấy hạnh phúc quá đỗi lắm rồi.
 
Và đến một hôm nào đó: "Áo cũng phai mầu nắng gió đ ường xa"
 
Và khi có dịp trở lại sân trường cũ thì những hoài niẹn chỉ còn nhớ thương  trong gang tấc:
 
 "Trở lại đây tìm khung trời vọng tưởng"
 
Nhiều khi tôi tự hỏi?
…Tôi trở lại thăm trường cũ rêu phong hay tôi tìm dáng em trong tuổi hạc bềnh bồng.
 
Bây giờ nhà thơ Uyên Thúy Lâm lại cho người đọc màu nắng hạ trong bài thơ:
" Lời Mẹ Quê Nhà"
"Ngày nắng hạ đến chiều đông mưa lạnh
 Lủi thủi một mình mẹ nhớ về xa."
 
Để rồi trong "Thanh Âm Ngày Cũ". Nắng không còn chờn vờn, e thẹn mà trong nắng có tiếng hòa âm, reo vui của tiếng nhạc, để ta lắng nghe
đâu đó Thanh Âm Ngày Cũ:
 
"Anh đến nơi đây một sáng hè
Nắng reo vui phố nhỏ đường quê.

Chân đồi xanh biếc trong làn nắng

Áo trắng em qua gọi gió về.”
Tôi lạy TT ngàn lần lạy.
Dù bây giờ, TT có rẽ qua xóm nhỏ, đứng đợi sẵn ở sân trường, thì tôi cũng xin chào thua ... vì mắt tôi đã gần như mù lòa mà bóng dáng em chỉ còn là khoảnh nhớ mơ hồ.

Rồi bỗng bất chợt nắng lại nhảy múa
  tưng bừng lên trên mhũng cung bậc mới, vừa tha thìết
vừa gợi nhớ một dòng sông xưa mà ta đã qua nhưng chưa bao giờ tìm về ...
"Nắng vàng trải lụa bến sông xa"
 
Thơ Uyên Thúy Lâm làm tôi liên tưởng trên bước quân đi của đời lính có những nơi hơn một lần tôi đến nhưng chưa một lần về thăm.
"Bỏ lại khu vườn xưa hoa nắng
 Cành trúc xạc xào trong gió lơi."
 
 
Rồi
"Tháng lụn ngày qua nắng tiếp mưa.
 
"Cung bậc buồn theo nắng hạ tàn
 Trăng khuyết đâu còn ai đối ẩm”

Để rồi:
"Từ đó năm năm mùa nắng hạ"
 
Trog bài Sắc Mầu, hết nắng sớm hết mưa chiều, nhà thơ lại cho ta cái im lặng chìm nghỉm trong nắng mai"
 
"Tà áo trinh nguyên trong nắng mai
 Vệ cỏ xanh non in dấu hài"
 
Tôi biết rất rõ, nắng mai và cỏ xanh chưa làm bẩn áo trinh nguyên của TT. Tôi tạ ơn TT đó!
 
Bóng dáng nhà thơ Uyên Thúy Lâm nhẹ bước quanh đồi:
"Em bước ven đồi thơm nắng mới
 Áo trắng quyện lòng ta ngát say."
 
Trong
 Lối Thu Xưa
" Ngày vẫn trôi thu vàng 
Chút mây xa tươi sắc nắng quan hà
 Anh về đi, trăng thu vằng vặc tỏ,
Bên đời nhau ngày tháng mãi đơm hoa”


 
Còn mong đọi gì hơn khi người con gái hờn dỗi, đuổi ta đi nhưng vẫn còn níu ta lại ... thì thầm:
{"Bên đời nhau ngày tháng mãi đơm hoa ..."}
 
Trong một chừng mực nào đó, người lính cũng sẽ ngậm ngùi ra đi nhưng tình dã níu kéo thăng hoa. Vì áo lính đã ướp mùi nắng hạ 
"Qua mưa đông, vàng nắng hạ
Tình si dại mãi như còn.”
 
Theo tôi nghĩ: Trăm năm trong lòng nhà thơ Uyên Thúy Lâm vẫn mong tìm… những giọt nắng.
Lúc thì nắng trong lòng nhà thơ ... rồi nắng sớm đầu hè ... nắng tràn đầu ngõ. Nắng vội vã về tim để tim giục giã tìm về ... vườn cũ, và nắng gợi nhớ dòng sông xa...
 
Rồi thương rồi nhớ để cung bậc của tiếng đàn âm vang
“Cung bậc buồn theo nắng hạ tàn”



Nắng bây giờ không còn chỉ là một vài ngày nắng hạ mà nắng cả một mùa… nắng, dai dẳng trong tim nhà thơ Uyên Thúy Lâm:
“Từ đó năm năm mùa nắng hạ
Thanh âm ngày cũ lắng trong tim.”


 
 “Tà áo trinh nguyên trong nắng mai
Vệ cỏ xanh non in dấu hài

Em bước ven đồi thơm nắng mới

Áo trắng quyện lòng ta ngát say.”
 
“ Lối Thu Xưa”
Gió sẽ chuyển đến anh niềm nhung nhớ,
Chút mây xa tươi sắc nắng quanh
 
Rồi
“Qua mưa đông, vàng nắng hạ
Tình si dại mãi như còn.”
 
Cái cảm nhận trong thơ với nỗi vui niềm nhớ, có cái giận cái hờn rồi có cái tình Em vẫn trong Anh.
Phải rồi! Mai dây mốt nọ, tôi sẽ đón gió mong tin TT về, và mong sao em vẫn vui như những ngày không có ta bên em...
Duy Xuyên
Tacoma